Cây cầu Hiền Lương chia cắt đôi bờ sông Bến Hải đã trở thành một chứng tích lịch sử về công cuộc kháng chiến vinh quang, hào hùng nhưng đầy gian khó của nhân dân Việt Nam. Sông Bến Hải đoạn trên thượng nguồn có tên là sông Rào Thanh, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy đến Cửa Tùng dài khoảng 100km. Lòng sông nơi rộng nhất khoảng 200m, tại vị trí cầu Hiền Lương rộng 170m. Đầu tiên cầu Hiền Lương được xây dựng bằng gỗ dành cho người đi bộ vào năm 1928.
Theo Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam: sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời và cầu Hiền Lương bắc qua sông cũng chia làm hai nửa.
Cầu Hiền Lương - chứng tích lịch sử
Sắt đã hoen rỉ
gỗ lát mặt cầu đã nứt
Con sông Bến Hải lịch sử này có tên khai sinh là sông Minh Lương, dài gần 100km, nơi rộng nhất là 200m, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chạy dọc từ vĩ tuyến 17 từ tây sang đông (ranh giới hai huyện Vĩnh Linh, Gio Linh hiện nay) đổ ra biển Đông tại cửa Tùng. Ở dãy Trường Sơn hùng vĩ phía tây, tận biên giới Việt Lào có một ngọn núi cao, gọi là Động Mang. Tại đây có một nguồn nước thiên nhiên bốn mùa trong xanh. Tương truyền ngày xưa tiên nữ thường hay đến tắm và đùa giỡn. Một hôm đang tắm, chợt thấy một đám đàn ông trần tục đứng nhìn trộm, các tiên nữ xấu hổ quay về trời và giao cho Thần Núi thi hành hình phạt đối với người trần gian: Bất cứ người nào qua đây buộc cũng phải mang gông vào cổ để không được nhìn ngang, nhìn ngửa, ai không mang gông sẽ bị Thần Núi vật chết. Vì vậy, ngọn núi có tên là Động Mang. Từ đây có hai dòng nước chảy về hai hướng ngược chiều nhau: Một dòng chảy về phía tây qua Lào trở thành sông Sê-băng-hiêng, người Vân Kiều gọi là “Dòng nước chảy ngược”, một dòng sông chảy về phía đông qua Quảng Trị gọi là sông Bến Hải.
Tên Bến Hải là do người Pháp viết trên bản đồ từ địa danh “Bến Hai” (ở thượng nguồn sông) mà thành.
Sông Bến Hải chảy xuôi được hơn 80km gặp sông Sa Lung từ hướng tây bắc chảy vào thành ngả ba sông mà ngày nay đứng ở cầu Hiền Lương nhìn về phía tây thấy rất rõ. Hợp lưu cả hai con sông này chảy qua làng Minh Lương (nằm ở bờ bắc) nên còn gọi là sông Minh Lương. Dưới thời vua Minh Mạng, do húy chữ “Minh” nên cả tên làng và tên sông đều đổi thành Hiền Lương.
Sông Bến Hải
Sông Bến Hải
Sau ngày toàn thắng, có đám rước dâu qua cầu Hiền Lương, nhà thơ Cảnh Trà đã rung động mà viết lên một bài thơ dài:
“...
Cầu vừa mới bắc xong, sơn còn tươi roi rói
Đôi bờ xanh lúa mới đã ngậm đòng
Nhìn hai họ qua cầu mà nước mắt rưng rưng
Mà sung sướng vui như đàn trẻ nhỏ
Chàng trai Vĩnh Linh cưới cô gái đất Cùa Cam Lộ
Sông tưng bừng nhìn đôi lứa thương nhau
Gió lâng lâng sóng vỗ chân cầu
Mà thắt ruột câu hò xưa tê tái
“Bước đến Hiền Lương sao chặng đường nghẹn lại
Đáo tới bờ Bến Hải sao gác mái tình duyên...”
Đám cưới hôm nay cũng tự nhiên như là hoa, là lá
Như là chị lấy chồng như là tôi lấy vợ
Mà hay chưa bỡ ngỡ như chiêm bao
Tôi nhìn sông, nghe sông chảy rì rào...”.
Cây cầu bê tông mới
Cột cờ
Tượng đài
Khung cảnh xung quanh
Câu Hò Bên Bờ Hiền Lương
Sáng tác: Hoàng Hiệp
Ca sĩ: :: ::
thơ: Đằng Giao
Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trông về
Mắt đượm tình quê... mắt đượm tình quê
Xa xa đoàn thuyền nan buồm căng theo gió xuôi dòng
Bỗng trong sương mờ không gian trầm lặng nghe câu hò
Hò ơi, ơi thuyền ơi, thuyền ơi có nhớ bến trăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Nhắn ai xin giữ câu nguyền
Trong cơn bão tố vững bền lòng son
Ơi, câu hò chiều nay sao nghe nặng tình ai
Hay là anh bên ấy trong phút giây nhớ nhung trào sôi
Gởi niềm tin theo gió qua mấy câu thiết tha hò ơi!
Trông qua rặng Trường Sơn, miền quê xa khuất chân trời
Mây lặng lờ trôi, mây đen lặng lờ trôi
Xa xa một đàn chim, rẻ mây dang cánh lưng trời
Hỡi chim hãy dừng cho ta gửi đến phương xa vời
Hò ơ ... Ơ, dù cho, dù cho bến cách sông ngăn
Dễ gì chặn được duyên anh với nàng
Rẻ mây cho sáng trăng vàng
Khai sông nối bến cho nàng về anh
Ơi câu hò chiều nay, tôi mang nặng tình ai
Nơi miền quê xa vắng em có nghe thấu cho lòng anh
Tình này ta xây đắp nên thủy chung không bao giờ phai